Xuất phát từ ý nghĩa quan trọng của công tác hòa giải trong việc giải quyết các vụ án dân sự, Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã đề ra nhiệm vụ: “Khuyến khích việc giải quyết một số tranh chấp thông qua thương lượng, hòa giải, trọng tài…..”. Ngày 3/10/2017 Chánh án TANDTC ban hành Chỉ thị số 04/2017/CT-CA về việc tăng cường công tác hòa giải tại TAND. Để việc hòa giải trong thực tiễn thực sự có hiệu quả, đáp ứng được yêu cầu đặt ra thì việc nghiên cứu các quy định của pháp luật tố tụng dân sự về hòa giải là cần thiết, đặc biệt trong giai đoạn BLTTDS 2015 có hiệu lực thi hành với nhiều nội dung mới, quan trọng, tiến bộ.
Mở phiên hòa giải là trách nhiệm của Tòa án trong quá trình giải quyết vụ án dân sự nhằm giúp đương sự có thể thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết quan hệ tranh chấp. Theo quy định của BLTTDS 2015, trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án có trách nhiệm tổ chức phiên hòa giải theo quy định trừ trường hợp vụ án được giải quyết theo thủ tục rút gọn; vụ án không được tiến hành hòa giải (Điều 206 BLTTDS) và những vụ án không tiến hành hòa giải được (Điều 207 BLTTDS). Pháp luật tố tụng không quy định thời điểm mở phiên hòa giải cụ thể là bao nhiêu ngày kể từ ngày thụ lý, tùy từng trường hợp khi xét thấy việc xây dựng hồ sơ, thu thập chứng cứ đã đầy đủ, các tình tiết của vụ án đã được làm rõ; Thẩm phán sẽ linh hoạt ấn định thời điểm mở phiên hòa giải trong thời hạn chuẩn bị xét xử sao cho phù hợp. Thời hạn chuẩn bị xét xử đối với các vụ án vụ án tranh chấp về dân sự (Điều 26 BLTTDS) và những tranh chấp về hôn nhân gia đình (Điều 28 BLTTDS) thì thời hạn là 04 tháng, kể từ ngày thụ lý vụ án; Đối với các vụ án Tranh chấp về kinh doanh, thương mại (Điều 30 BLTTDS) và tranh chấp về lao động (Điều 32 BLTTDS) thì thời hạn là 02 tháng, kể từ ngày thụ lý vụ án.
Trường hợp vụ án dân sự có yếu tố nước ngoài thì Phiên họp hòa giải phải được mở sớm nhất là 06 tháng và chậm nhất là 08 tháng, kể từ ngày ra văn bản thông báo thụ lý vụ án. Ngày mở lại phiên họp hòa giải (nếu có) được ấn định cách ngày mở phiên họp hòa giải chậm nhất là 01 tháng (Điều 476 BLTTDS 2015). Liên hệ các quy định về thời hạn giải quyết vụ án trong luật tố tụng hành chính, thời hạn giải quyết vụ án dân sự theo thủ tục chung thì đây là một điểm nhấn, một bước cải tiến đột phá trong tư duy lập pháp, bởi thông thường để tránh tình trạng thiếu trách nhiệm, kéo dài thời gian giải quyết vụ án của cơ quan tiến hành tố tụng, các nhà làm luật phải quy định thời hạn tối đa của mỗi một quá trình. Do đặc thù của các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài về vấn đề ủy thác tư pháp tống đạt các giấy tờ, tài liệu, quyết định của Tòa án ra nước ngoài nên BLTTDS 2015 đã quy định thời hạn mở phiên họp hòa giải trong khoảng sớm nhất là 06 tháng, chậm nhất là 08 tháng; thời hạn mở phiên tòa sớm nhất là 09 tháng, chậm nhất là 12 tháng. Lý luận cho thấy quy định kéo dài thời hạn mở phiên họp và mở phiên tòa các vụ án dân sự có yếu tố nước ngoài là tiến bộ sẽ tạo điều kiện cho tòa án có thể thu thập đầy đủ tài liệu, chứng cứ, cấp tống đạt đầy đủ đúng thời hạn, góp phần giải quyết vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài được chính xác, đảm bảo thời hạn theo luật định. Tuy nhiên, thực tiễn giải quyết các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài cho thấy, việc quy định rõ thời hạn sớm nhất mở phiên họp, phiên tòa như vậy là cứng nhắc, thụ động, thiếu hợp lý, nhiều trường hợp làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của chính đương sự, làm mất đi sự linh hoạt của tòa án trong việc giải quyết các vụ việc dân sự. Điển hình trường hợp vụ án ly hôn (chỉ có quan hệ hôn nhân, không có con chung và tài sản), sau khi Tòa án gửi cấp tống đạt bằng dịch vụ bưu chính, đương sự ở nước ngoài đã có văn bản phản hồi nêu ý kiến đồng ý ly hôn và có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Trường hợp này, việc thu thập chứng cứ đã đầy đủ, rõ ràng nhưng Tòa án không được mở phiên tòa ngay mà phải chờ đến đúng thời hạn đã ấn định là không phù hợp. Trong thời gian tới rất mong TAND tối cao hướng dẫn tháo gỡ điểm bất cập này.
Bên cạnh quy định bắt buộc phải mở phiên hòa giải trong thời hạn chuẩn bị xét xử; pháp luật tố tụng cũng quy định việc hòa giải có thể được thực hiện tại phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm thể hiện bằng việc Chủ tọa phiên tòa hỏi các đương sự có thể thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án hay không. Tùy mỗi giai đoạn, việc hòa giải, thỏa thuận giữa các đương sự được ghi nhận dưới hình thức và giá trị pháp lý khác nhau…
Theo quy định tại Điều 205 BLTTDS 2015 thì việc hòa giải phải được tiến hành theo các nguyên tắc sau:
– Thứ nhất, Tôn trọng sự tự nguyện thỏa thuận của các đương sự, không được dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực, bắt buộc các đương sự phải thỏa thuận không phù hợp với ý chí của mình. Xuất phát từ nguyên tắc cơ bản, đặc trưng của tố tụng dân sự là nguyên tắc Quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự (Điều 5 BLTTDS) theo đó pháp luật thừa nhận và đảm bảo cho các chủ thể tham gia quan hệ tố tụng dân sự được toàn quyền thể hiện ý chí, lựa chọn, quyết định thực hiện hay không thực hiện hành vi tố tụng nhất định. Vụ án dân sự chỉ được phát sinh dựa trên yêu cầu khởi kiện của chủ thể khi cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm, Tòa án không can thiệp, giải quyết các quan hệ dân sự khi không có đơn khởi kiện. Quá trình giải quyết vụ án trong mọi giai đoạn tố tụng, đương sự có toàn quyền thể hiện ý chí của mình bằng việc yêu cầu, thỏa thuận với nhau về đường lối giải quyết tranh chấp. Tòa án phải tôn trọng sự tự nguyện thỏa thuận của các đương sự và việc thể hiện ý chí này chỉ được Tòa án chấp nhận trong trường hợp hoàn toàn tự nguyện không bị đe dọa hay ép buộc.
– Thứ hai, Nội dung thỏa thuận giữa các đương sự không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội: Nội dung thỏa thuận của các đương sự chỉ được Tòa án chấp nhận khi nội dung này không vi phạm điều cấm của luật và không trái đạo đức xã hội. Điều cấm của luật là những quy định của luật không cho phép chủ thể thực hiện những hành vi nhất định; đạo đức xã hội là những chuẩn mực ứng xử chung trong đời sống xã hội, được cộng đồng thừa nhận và tôn trọng. Mọi thỏa thuận vi phạm điều cấm của luật và trái đạo đức xã hội đều không được Tòa án công nhận.
