Trong BLHS 2015, khái niệm tội phạm về chức vụ đã được mở rộng về phạm vi. Cụ thể phạm vi các tội tham ô tài sản, nhận hối lộ, tội đưa hối lộ và tội môi giới hối lộ đã được mở rộng sang khu vực ngoài nhà nước.

Các quy định về tội phạm chức vụ bắt đầu bằng khái niệm tội phạm về chức vụ. Theo khoản 1 Điều 352, “Các tội phạm về chức vụ là những hành vi xâm phạm hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức do người có chức vụ thực hiện trong khi thực hiện công vụ, nhiệm vụ.” Qua định nghĩa này, có thể thấy, khách thể bị các tội phạm này xâm hại là những quan hệ xã hội bảo đảm cho hoạt động đúng đắn và uy tín của cơ quan, tổ chức trong và ngoài nhà nước, cụ thể là các quan hệ bảo đảm tính liêm chính, tính vô tư và công minh trong hoạt động thực thi nhiệm vụ của các cơ quan, tổ chức; đồng thời, quan hệ sở hữu tài sản của Nhà nước, của tổ chức, doanh nghiệp ngoài nhà nước hoặc quyền, lợi ích hợp pháp của công dân cũng có thể trở thành khách thể của các tội phạm về chức vụ. Đối tượng tác động quan trọng nhất của các tội phạm về chức vụ chính là hoạt động thực hiện công vụ, nhiệm vụ của người có chức vụ, quyền hạn. Bằng việc bổ sung đối tượng tác động của tội phạm chức vụ là hoạt động thực hiện “nhiệm vụ” bên cạnh hoạt động thực hiện “công vụ” vốn đã được quy định trong BLHS 1999, BLHS 2015 đã khẳng định việc mở rộng phạm vi của tội phạm về chức vụ sang khu vực tư và thể hiện sự thay đổi của khái niệm tội phạm về chức vụ.

Khái niệm người có chức vụ, quyền hạn với tư cách là chủ thể của nhiều tội phạm về chức vụ và là đối tượng của tất cả các tội phạm này đã có một số thay đổi tương ứng với việc mở rộng phạm vi của một số tội phạm về chức vụ.

Trước hết, tội tham ô tài sản đã mở rộng phạm vi chủ thể, đó là người có trách nhiệm quản lý tài sản trong mọi loại hình cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp trong và ngoài Nhà nước. Trách nhiệm này phát sinh cả trong các cơ quan, tổ chức của nhà nước cũng như trong các tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp ngoài nhà nước (ví dụ: trách nhiệm quản lý tài sản của công ty trách nhiệm hữu hạn với phần vốn góp từ các cá nhân, của doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài), vì theo quy định được bổ sung tại khoản 6 Điều 353, người có chức vụ, quyền hạn trong các doanh nghiệp, tổ chức ngoài Nhà nước cũng có thể trở thành chủ thể của tội tham ô tài sản.

Bên cạnh đó, theo quy định được bổ sung tại khoản 6 Điều 354, chủ thể của tội Nhận hối lộ còn có thể là người có chức vụ, quyền hạn trong các doanh nghiệp, tổ chức ngoài nhà nước. Đó là những người làm công tác quản lí từ cấp cao nhất tới cấp thấp nhất hoặc những người tuy không có chức vụ nhưng được giao nhiệm vụ trong các doanh nghiệp, tổ chức này và nhiệm vụ đó làm phát sinh quyền của họ đối với người khác.

Tóm lại, chủ thể của hai tội phạm về chức vụ nêu trên là người có chức vụ, quyền hạn trong cả hai khu vực nhà nước và ngoài nhà nước (khu vực công và khu vực tư). Cần chú ý rằng chủ thể của tội tham ô tài sản ở khu vực tư phải là người được giao quản lý tài sản bởi các doanh nghiệp, tổ chức ngoài nhà nước. Đối với chủ thể của tội nhận hối lộ ở khu vực tư, đó phải là người được các tổ chức, doanh nghiệp tín nhiệm giao vị trí công tác hoặc công việc (họ là người lao động trong mối quan hệ với chủ doanh nghiệp) và hành vi nhận lợi ích của họ trong lúc thực hiện nhiệm vụ đã thể hiện sự bội tín với chủ doanh nghiệp hoặc với tổ chức của mình.

Đồng thời, người có chức vụ, quyền hạn ở khu vực ngoài Nhà nước có thể trở thành đối tượng của các tội phạm về chức vụ như tội đưa hối lộ (Điều 364), tội môi giới hối lộ (Điều 365) BLHS 2015. Như vậy, trong khi đối tượng tác động của các tội đưa hối lộ và môi giới hối lộ theo BLHS 1999 chỉ là hoạt động thực hiện công vụ của người có chức vụ, quyền hạn trong các cơ quan đơn vị của Nhà nước thì BLHS 2015 đã mở rộng đối tượng tác động của các tội này tới hoạt động thực hiện nhiệm vụ nói chung của tất cả những người có chức vụ, quyền hạn trong và ngoài nhà nước.

By Tâm

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai.

0972810901