Thu thập chứng cứ là một giai đoạn của quá trình chứng minh, là tiền đề và cơ sở để diễn ra các hoạt động tố tụng tiếp theo. Và nếu như giai đoạn thu thập chứng không được diễn ra thì sẽ không có việc kiểm tra, đánh giá và sử dụng chứng cứ trong vụ án hình sự. Theo Điều 86, Bộ luật Tố tụng Hình sự (BLTTHS) 2015 thì chứng cứ là những gì có thật, được thu thập theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định, được dùng làm căn cứ để xác định có hay không có hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội và những tình tiết khác có ý nghĩa trong việc giải quyết vụ án. Pháp luật cũng đã quy định Luật sư có quyền tham gia vào quá trình thu thập chứng cứ, và trong quá trình thu thập sẽ gặp những thuận lợi cũng như khó khăn riêng nên đòi hỏi một Luật sư cần linh hoạt, chủ động trong hoạt động thu thâp chứng cứ.

Để việc thu thập chứng cứ được thuận lợi, Luật sư với tư cách là người bào chữa và đại diện cho người mà mình bào chữa theo quy định của pháp luật cần có những kỹ năng trong việc thu thập chứng cứ một cách chủ động và linh hoạt, bởi khi càng tìm ra nhiều chứng cứ thì khả năng gỡ tội, giảm nhẹ tội hoặc bảo vệ cho người mà mình bào chữa càng cao.

Tại khoản 1 Điều 73 BLTTHS năm 2015 quy định quyền của người bào chữa, bao gồm: Thu thập, đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu; Kiểm tra, đánh giá và trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá; Đề nghị cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thu thập chứng cứ, giám định bổ sung, giám định lại, định giá lại tài sản.

Các nguồn chứng cứ được quy định tại Điều 87 của BLTTHS 2015, bao gồm: vật chứng; lời khai, lời trình bày; dữ liệu điện tử; kết quả giám định; định giá tài sản; biên bản trong hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án; kết quả thực hiện ủy thác tư pháp và hợp tác quốc tế khác; các vật liệu, đồ vật khác;…

Theo Điều 88 BLTTHS năm 2015, để thu thập chứng cứ, người bào chữa có quyền gặp người mà mình bào chữa, bị hại, người làm chứng và những người khác biết về vụ án để hỏi và nghe họ trình bày về những vấn đề liên quan đến vụ án; đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử liên quan đến việc bào chữa.

Khi tiếp nhận chứng cứ, tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử liên quan đến vụ án do người bào chữa cung cấp, cơ quan tiến hành tố tụng phải lập biên bản giao nhận và kiểm tra, đánh giá theo quy định tại khoản 2, khoản 3 Điều 73 BLTTHS năm 2015. Theo quy định của pháp luật, những tài liệu, đồ vật liên quan đến vụ án do người bào chữa thu thập được có giá trị như những tài liệu, đồ vật do cơ quan điều tra thu thập. Vì vậy, Luật sư có kế hoạch chủ động tự điều tra, thu thập chứng cứ là rất quan trọng. Những tài liệu, đồ vật này sẽ được coi là chứng cứ trong vụ án nếu nó phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 88 BLTTHS năm 2015.

Hơn thế nữa, pháp luật đã thừa nhận việc Luật sư có quyền tham gia vào quá trình thu thập chứng cứ, tuy nhiên thực tiễn áp dụng có thể thấy việc thu thập chứng cứ độc lập của Luật sư vẫn gặp phải vô vàn khó khăn, vướng mắc, hạn chế quyền lực nhất định. Tại khoản 4 Điều 88 BLTTHS 2015 quy định: “Khi tiếp nhận chứng cứ, tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử liên quan đến vụ án do những người quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều này cung cấp, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải lập biên bản giao nhận và kiểm tra, đánh giá theo quy định của Bộ luật này”, việc thu thập chứng cứ của Luật sư vẫn phải chịu sự giám sát, kiểm tra, đánh giá của cơ quan điều tra. Những thông tin, đồ vật, tài liệu,… do Luật sư thu thập có phải là chứng cứ hay không và việc quyết định có sử dụng hay không sẽ phụ thuộc hoàn toàn vào cơ quan tiến hành tố tụng.

Điều này đã vô tình tạo ra kẽ hở trong hoạt động hành pháp, dẫn đến đến sự thiếu khách quan, trong nhiều trường hợp Luật sư đã thu thập được những chứng cứ mới, có giá trị quan trọng trong vụ án, chứng minh sự vô tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho thân chủ nhưng lại bị vô hiệu hóa làm sai lệch dẫn đến giá trị chứng minh không còn. Nếu muốn lấy lời khai của người bị tạm giữ, hỏi cung bị can, Luật sư chỉ được hỏi người bị tạm giữ, bị can nếu được điều tra viên đồng ý.

Họat động Luật sư thu thập chứng cứ bằng việc đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử liên quan đến việc bào chữa cũng gặp một số khó khăn nhất định. Nhiều ý kiến đánh giá quy định này chỉ mang tính hình thức bởi trong thực tiễn, khi cơ quan, tổ chức, cá nhân không hợp tác với Luật sư trong việc cung cấp các tài liệu, đồ vật thì Luật sư lại phải đề nghị cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thực hiện việc thu thập chứng cứ tại cơ quan, tổ chức đó. Như vậy, hoạt động thu thập chứng cứ của Luật sư dường như lại trở thành vô nghĩa.

Hi vọng thời gian tới, pháp luật sẽ hoàn thiện để chi tiết hóa quyền thu thập tài liệu chứng cứ của Luật sư để quy định của pháp luật đi vào thực tiễn chứ không còn trên giấy như phi thực tế.

By Tâm

One thought on “QUYỀN TỰ THU THẬP CHỨNG CỨ CỦA LUẬT SƯ TRONG VỤ ÁN”

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai.

0972810901