1. Khái niệm.
Theo khoản 1 Điều 292 BLDS 2015 thì cầm cố tài sản là một trong 9 biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ.
Trong đó cầm cố tài sản là việc một bên (bên cầm cố) giao tài sản thuộc quyền sở hữu của mình cho bên kia (bên nhận cầm cố) để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ – Điều 309 BLDS 2015.
2. Hình thức của cầm cố tài sản.
Pháp luật hiện hành không quy định cụ thể hình thức của cầm cố tài sản, tuy nhiên có thể hiểu, đối với tài sản là động sản thì có thể cầm cố theo hình thức bằng miệng hoặc bằng văn bản; đối với tài sản là bất động sản thì việc cầm cố bắt buộc phải được thể hiện bằng văn bản.
Văn bản cầm cố không nhất thiết phải công chứng, chứng thực hoặc đăng ký trừ trường hợp pháp luật có quy định.
3. Đối tượng của cầm cố tài sản.
Đối tượng của cầm cố tài sản chỉ có thể là tài sản. Xét theo bản chất của cầm cố là việc bên cầm cố phải giao tài sản cho bên nhận cầm cố giữ nên tài sản cầm cố chỉ có thể là vật có sẵn vào thời điểm giao dịch cầm cố được xác lập. Giấy tờ có giá chỉ có thể là tài sản cầm cố nếu bản thân giấy tờ đó là một loại tài sản.
Vật dùng để cầm cố có thể là động sản hoặc bất động sản nhưng phải đáp ứng điều kiện sau đây:
Một là, vật cầm cố phải thuộc quyền sở hữu của bên cầm cố.
Hai là, vật cầm cố phải là vật được phép chuyển giao.
4. Hiệu lực và thời hạn của cầm cố tài sản.
Hiệu lực của hợp đồng cầm cố tài sản bắt đầu từ thời điểm giao kết, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác. Và có hiệu lực đối kháng đối với người thứ ba kể từ bên nhận cầm cố nắm giữ tài sản cầm cố.
Trong trường hợp tài sản cầm cố là bất động sản thì theo quy định của pháp luật thì việc cầm cố tài sản là bất động sản sẽ có hiệu lực đối kháng đối với người thứ ba kể từ thời điểm đăng ký.
Thới hạn cầm cố tài sản do các bên tự thỏa thuận. Nếu các bên không có thỏa thuận thì thời hạn cầm cố tài sản tính từ thời điểm bên nhận cầm cố nhận tài sản cho đến khi chấm dứt nghĩa vụ được bảo đảm bằng cầm cố.
5. Chấm dứt cầm cố tài sản.
Căn cứ điều 315 BLDS quy định về chấm dứt cầm cố tài sản như sau:
“Cầm cố tài sản chấm dứt trong trường hợp sau đây:
1. Nghĩa vụ được bảo đảm bằng cầm cố chấm dứt.
2. Việc cầm cố tài sản được hủy bỏ hoặc được thay thế bằng biện pháp bảo đảm khác.
3. Tài sản cầm cố đã được xử lý.
4. Theo thỏa thuận của các bên.”
Như vậy cầm cố tài sản chấm dứt khi xảy ra 1 trong 4 trường hợp trên. Đặc biệt, trừ trường hợp tài sản cầm cố đã được xử lý thì các trường hợp khác khi việc cầm cố chấm dứt thì bên nhận cầm cố phải trả lại tài sản cùng các giấy tờ liên quan đến tài sản cầm cố cho bên cầm cố.
Ngoài ra, nếu không có thỏa thuận khác thì hoa lợi, lợi tức thu được từ tài sản cầm cố, bên nhận cầm cố cũng phải trả lại cho bên cầm cố theo quy định tại Điều 316 BLDS, cụ thể: “Khi việc cầm cố tài sản chấm dứt theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 315 của Bộ luật này hoặc theo thỏa thuận của các bên thì tài sản cầm cố, giấy tờ liên quan đến tài sản cầm cố được trả lại cho bên cầm cố. Hoa lợi, lợi tức thu được từ tài sản cầm cố cũng được trả lại cho bên cầm cố, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.”
6. Dịch vụ cầm đồ có phải cầm cố tài sản không?
Theo quy định tại khoản 4 Điều 3 Nghị định 96/2016/NĐ-CP quy định về kinh doanh dịch vụ cầm đồ như sau:
“Kinh doanh dịch vụ cầm đồ gồm: Kinh doanh dịch vụ cho vay tiền mà người vay tiền phải có tài sản hợp pháp mang đến cơ sở kinh doanh dịch vụ cầm đồ để cầm cố.”
Cầm đồ là một loại hình kinh doanh có điều kiện mà người vay tiền phải có tài sản hợp pháp mang đến cơ sở kinh doanh dịch vụ cầm đồ để cầm cố nhằm bảo đảm nghĩa vụ trả nợ của bên vay đối với cơ sở kinh doanh dịch vụ cầm đồ. Đây là một ngành nghề kinh doanh có điều kiện nhằm thu lợi nhuận thuộc nhóm ngành nghề “hỗ trợ tài chính”.
Theo quy định tại Nghị định 96/2016 để hoạt động kinh doanh dịch vụ cầm đồ thì các cá nhân, tổ chức cần đáp ứng các điều kiện sau:
Một là, được đăng ký, cấp phép hoặc thành lập;
Hai là, người Việt Nam không bị khởi tố hình sự mà cơ quan chức năng đang điều tra, truy tố, xét xử hoặc không có tiền án về các tội xâm phạm an ninh quốc gia… hoặc người Việt Nam định cư ở nước ngoài và người nước ngoài phải được cơ quan của Việt Nam cấp phép cư trú;
Ba là, người chịu trách nhiệm về an ninh, trật tự của cơ sở kinh doanh dịch vụ cầm đồ phải có hộ khẩu thường trú tại xã, phường, thị trấn nơi đặt địa điểm kinh doanh ít nhất 05 năm;
Bốn là, trong thời gian 05 năm liền kề trước khi đăng ký kinh doanh, người chịu trách nhiệm về an ninh, trật tự không bị xử phạt hành chính về hành vi chống người thi hành công vụ, gây rối trật tự công cộng, cố ý gây thương tích, cho vay nặng lãi, đánh bạc, trộm cắp tài sản, lừa đảo chiếm đoạt tài sản…
Như vậy, có thể thấy cầm đồ là 1 hình thức phát triển của cầm cố mang tính chất chuyên nghiệp đồng thời cũng yêu cầu những quy định, điều kiện bắt buộc hơn so với cầm cố.
