1. Khái niệm che giấu tội phạm.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 18 Bộ luật Hình sự 2015 thì che giấu tội phạm được hiểu là việc một người không hứa hẹn trước, nhưng sau khi biết tội phạm được thực hiện đã che giấu người phạm tội, dấu vết, tang vật của tội phạm hoặc có hành vi khác cản trở việc phát hiện, điều tra, xử lý người phạm tội, thì phải chịu trách nhiệm hình sự về tội che giấu tội phạm trong những trường hợp mà Bộ luật này quy định.
Khi ấy, người đó phạm sẽ phải chịu TNHS về tội che giấu tội phạm trong những trường hợp mà BLHS quy định.
Trong trường hợp, người che giấu tội phạm là ông, bà, cha, mẹ, con, cháu, anh chị em ruột, vợ hoặc chồng của người phạm tội không phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của BLHS, trừ trường hợp che giấu các tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng khác quy định tại Điều 389 của BLHS.
2. Tội che giấu tội phạm.
Tội che giấu tội phạm được quy định cụ thể tại Điều 389 BLHS 2015. Cấu thành tội phạm của tội che giấu tội phạm được thể hiện như sau:
Thứ nhất, về mặt khách quan : Hành vi che giấu tội phạm được thực hiện bằng hành động tích cực sau khi tội phạm được thực hiện. Cụ thể như: Chứa chấp, nuôi dưỡng, giúp đỡ người phạm tội trôn tránh pháp luật hoặc xoá bỏ, tiêu huỷ dấu vết chứng cứ của tội phạm, cất giấu, huỷ bỏ tang vật của tội phạm. Hành vi này không có quan hệ nhân quả với tội phạm được che giấu. Tội phạm được hoàn thành từ thời điểm bắt đầu thực hiện một trong các hành động nêu trên.
Thứ hai, về mặt chủ quan : Người che giấu tội phạm đã cố ý thực hiện hành vi, hiểu rõ hành vi che giấu của mình là phạm tội, nhưng vì động cơ vụ lợi, hèn nhát hoặc thờ ơ với lợi ích của nhà nước, của cộng đồng, của người khác nên họ vẫn thực hiện hành vi che giấu tội phạm.
Thứ ba, về chủ thể: Che giấu tội phạm có thể là hành vi của bất kỳ ai có năng lực trách nhiệm hình sự. Và người che giấu tội phạm chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự trong những trường hợp được Bộ luật Hình sự quy định trong phần các tội phạm.
3. So sánh che giấu tội phạm và không tố giác tội phạm.
3.1. Điểm giống nhau.
Một là, hai tội phạm này đều được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp.
Hai là, cả hai tội phạm này đều miễn giảm TNHS cho các đối tượng là người thân thích của người có hành vi phạm tội nhưng không bị tố giác hoặc phát hiện. Cụ thể ở đây có thể là: ông, bà, cha, mẹ, con, cháu, anh chị em ruột, vợ hoặc chồng của người phạm tội
3.2. Điểm khác nhau.
Thứ nhất, về mặt nhận thức của người phạm tội.
Che giấu tội phạm là chỉ biết về hành vi phạm tội của người phạm tội đã xảy ra và không biết trước hay hứa hẹn gì với người phạm tội. Còn không tố giác tội phạm là biết rõ tội phạm đang được chuẩn bị thực hiện hoặc đang xảy ra nhưng chọn cách không tố giác hoặc báo với cơ quan chức năng có thẩm quyền.
Thứ hai, về thời điểm phát hiện tội phạm.
Về hành vi che giấu tội phạm: Chỉ thực hiện sau khi biết được một tội phạm khác đã xảy ra.
Về hành vi không tố giác tội phạm: Bất cứ giai đoạn nào của tội phạm (sắp, đang, đã xảy ra).
Thứ ba, về cách thức thực hiện hành vi.
Che giấu tội phạm là hành vi che giấu người phạm tội, che giấu dấu vết, che giấu tang vật, cản trở điều tra, cản trở việc phát hiện tội phạm, cản trợ việc xử lý người phạm tội. Còn không tố giác tội phạm là không tố giác hành vi phạm tội tới cơ quan có thẩm quyền.
Thứ tư, về mức phạt.
Theo Điều 389, người phạm tội che giấu các tội phạm có thể bị cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 05 năm. Nếu phạm tội trong trường hợp lợi dụng chức vụ, quyền hạn cản trở việc phát hiện tội phạm hoặc có những hành vi khác bao che người phạm tội, thì bị phạt tù từ 02 – 07 năm.
Theo Điều 390, người phạm tội không tố giác tội phạm sẽ bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
Thứ năm, về trường hợp không bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Người bào chữa không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội không tố giác tội phạm. Trừ trường hợp không tố giác các tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc tội khác là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do chính người mà mình bào chữa đang chuẩn bị, đang thực hiện hoặc đã thực hiện mà người bào chữa biết rõ khi thực hiện việc bào chữa.
