1. Khái niệm về hành vi cạnh tranh không lành mạnh
Hành vi CTKLM được định nghĩa tại khoản 6 Điều 3 Luật Cạnh tranh 2018 là “hành vi của doanh nghiệp trái với nguyên tắc thiện chí, trung thực, tập quán thương mại và các chuẩn mực khác trong kinh doanh, gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp khác”
2. Nhận diện hành vi cạnh tranh không lành mạnh
Theo quy định tại Điều 45 LCT 2018, các hành vi CTKLM gồm những hành vi sau:
2.1. Xâm phạm thông tin bí mật trong kinh doanh
Xâm phạm thông tin bí mật trong kinh doanh là hành vi tìm cách tiếp cận, thu thập, tiết lộ, sử dụng thông tin thuộc bí mật kinh doanh của doanh nghiệp khác để phá hoại hoặc để lợi dụng, mang lại lợi ích cho mình.
Đối tượng đặc trưng của hành vi này là thông tin bí mật trong kinh doanh. Bí mật kinh doanh theo định nghĩa tại Điều 84 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 có đặc điểm: không phải là hiểu biết thông thường; có khả năng áp dụng trong kinh doanh và khi được sử dụng sẽ tạo cho người nắm giữ thông tin đó có lợi thế; được chủ sở hữu bảo mật bằng các biện pháp cần thiết
Cách thức thực hiện xâm phạm thông tin bí mật trong kinh doanh là tiếp cận, thu thập thông tin và tiết lộ, sử dụng thông tin. Ngoài ra, đặc trưng nổi bật nhất của hành vi xâm phạm thông tin bí mật trong kinh doanh là chứng minh yếu tố không được phép của chủ sở hữu thông tin.
2.2. Ép buộc khách hàng, đối tác kinh doanh
Hành vi ép buộc trong kinh doanh được quy định tại khoản 2 Điều 45 LCT 2018. Đây là quy định được kế thừa từ quy định tại Điều 42 LCT 2004.
Đặc trưng của hành vi này là việc buộc người tiêu dùng, đối tác kinh doanh của doanh nghiệp khác bằng việc đe dọa hoặc cưỡng ép khiến chủ thể bị gây áp lực phải hành động theo ý chí của chủ thể vi phạm. Theo khoản 2 Điều 45 Luật Cạnh tranh 2018, đối tượng bị ép buộc không chỉ khách hàng mà còn có các đối tác kinh doanh của đối thủ cạnh tranh, với hậu quả khiến cho đối thủ cạnh tranh bị gián đoạn các giao dịch đang có và không thể giao kết hợp đồng mới.
2.3. Cung cấp thông tin không trung thực về doanh nghiệp khác
Hành vi cung cấp thông tin không trung thực về doanh nghiệp khác được quy định tại khoản 3 Điều 45 LCT 2018. Pháp luật hiện hành đã thay thế cụm từ “gièm pha” theo LCT 2004 bằng định nghĩa “cung cấp thông tin không trung thực”.
Chủ thể thực hiện hành vi là các doanh nghiệp đối thủ thực hiện cung cấp thông tin không trung thực, ngoài ra, có thể có chủ thể khác thực hiện hành vi thông qua các cách thức khác nhau.
Cách thức thực hiện hành vi là trực tiếp hoặc gián tiếp đưa thông tin không trung thực về doanh nghiệp khác. Đối với hình thức đưa thông tin trực tiếp, chủ thể trực tiếp đưa ra thông tin hướng đến người tiêu dùng. Đối với hình thức đưa thông tin gián tiếp có thể được thực hiện thông qua bên thứ ba để truyền tải thông tin.
2.4. Gây rối hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác
Khoản 4 Điều 45 LCT 2018 quy định về hành vi gây rối hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác. Theo đó, hành vi gây rối có thể là bất kì hành vi, thủ đoạn nào khiến cho tình hình kinh doanh của các doanh nghiệp bị gián đoạn hoặc bị cản trở mà gây ra hậu quả đã xảy ra trên thực tế.
Các dấu hiệu đặc trưng của hành vi gây rối hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác bao gồm: (1) chủ thể thực hiện hành vi là chủ thể có mối quan hệ cạnh tranh trong hoạt động sản xuất, kinh doanh với doanh nghiệp bị gây rối; (2) hành vi này có thể được thực hiện dưới hình thức trực tiếp hoặc gián tiếp cản trở (doanh nghiệp đó thông qua bên thứ ba gây tác động, cản trở hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp đối thủ); (3) hậu quả của hành vi là hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp đó bị cản trở, gián đoạn, dẫn đến không thể hoạt động một cách bình thường.
2.5. Lôi kéo khách hàng bất chính
Hành vi quảng cáo nhằm CTKLM và khuyến mại nhằm CTKLM trong LCT 2004 được thay đổi bằng hành vi có tính chất khái quát hơn là lôi kéo khách hàng bất chính trong LCT 2018. Bản chất của hành vi lôi kéo bất chính là tác động sai trái lên khách hàng bằng cách đưa ra lý do, thông tin trái chiều để khiến họ lựa chọn mua, sử dụng hàng hóa, dịch vụ của mình, và không hoặc ngừng mua hàng hóa, dịch vụ của đối thủ cạnh tranh. Khoản 5 Điều 45 LCT 2018 giới hạn ở hai dạng hành vi sau:
2.5.1. Đưa thông tin gian dối hoặc gây nhầm lẫn
Quy định về hành vi “đưa thông tin gian dối hoặc gây nhầm lẫn cho khách hàng” được phát triển một cách khái quát hơn dựa trên quy định cũ tại LCT 2004 về “quảng cáo gian dối hoặc gây nhầm lẫn”, điều chỉnh tất cả các hình thức đưa thông tin từ doanh nghiệp đến khách hàng
Về đối tượng của việc đưa thông tin, khoản 5 Điều 45 LCT 2018 chỉ áp dụng trong trường hợp doanh nghiệp đưa thông tin về chính doanh nghiệp mình liên quan đến hàng hóa, dịch vụ, về khuyến mại, điều kiện giao dịch đối với hàng hóa, dịch vụ.
Về tính chất của thông tin, việc đưa thông tin chỉ bị xem xét theo quy định này khi có yếu tố gian dối hoặc gây nhầm lẫn cho khách hàng, thể hiện tính chất không thiện chí, không trung thực trong kinh doanh.
2.5.2. So sánh thiếu căn cứ
Luật Cạnh tranh 2018 không còn quy định cấm tuyệt đối hành vi so sánh trực tiếp giữa các doanh nghiệp mà chỉ cấm việc so sánh thiếu căn cứ. Như vậy, việc so sánh sẽ được chấp nhận nếu nội dung so sánh là đúng đắn, chính xác. Sự thay đổi này là đúng đắn và phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế hiện nay. Việc cho phép các doanh nghiệp thực hiện hành vi so sánh với đầy đủ căn cứ xác thực sẽ giúp bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng một cách triệt để và hiệu quả hơn. Hơn nữa, khi một doanh nghiệp có những lợi thế cạnh tranh chính đáng so với đối thủ, sẽ không hợp lí khi ngăn cản người đó công bố chúng, nếu ngăn cản có thể gây ảnh hưởng tiêu cực đối với cạnh tranh nói chung.
Đối tượng so sánh là hàng hóa, dịch vụ cùng loại. Yếu tố cơ bản nhất để đánh giá sự liên quan giữa hai hàng hóa, dịch vụ là cùng mục đích sử dụng, sau đó xem xét thêm yếu tố về đặc tính, giá cả
2.6. Bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ dưới giá thành toàn bộ
Đây là một hành vi mới được LCT 2018 bổ sung tại khoản 6 Điều 45 trong quy định về hành vi CTKLM. Các hành vi CTKLM dưới hình thức bán sản phẩm dưới giá thành toàn bộ chủ yếu được thực hiện thông qua việc bán hàng hóa, dịch vụ với giá thấp hơn nhiều so với giá thị trường để nhằm tăng doanh thu lợi nhuận trước mắt, kéo khách hàng mua được nhiều sản phẩm cho doanh nghiệp, gây thiệt hại đến lợi ích hợp pháp của các doanh nghiệp cạnh tranh công bằng khác. Từ đó dẫn đến sự hạn chế cạnh tranh hoặc nghiêm trọng hơn là triệt tiêu sự cạnh tranh trong thị trường liên quan.
2.7. Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh khác
LCT 2018 lược bỏ một số hành vi cạnh tranh không lành mạnh trước đây được quy định tại LCT 2004. Tuy nhiên, khoản 7 Điều 45 của Luật lại quy định về “các hành vi CTKLM bị cấm theo quy định của luật khác”. Bên cạnh pháp luật cạnh tranh, các văn bản pháp luật khác như Luật Sở hữu trí tuệ, Bộ luật Dân sự, Luật Thương mại, …và các nghị quyết của Chính phủ cũng có quy định về hành vi CTKLM. Điều này là hoàn toàn phù hợp với thực tiễn đa dạng, phong phú của hoạt động cạnh tranh trên thị trường
