1. Giá đất tính bồi thường.
Việc quy định giá đất bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất căn cứ vào giá đất do UBND cấp tỉnh quy định như hiện nay ảnh hưởng không nhỏ đến quyền lợi người bị thu hồi đất.
Luật đất đai 2013 có quy định tại điểm c khoản 1 Điều 112 và khoản 2 Điều 74 như sau :
Điểm c khoản 1 Điều 112: “Việc định giá đất phải phù hợp với giá đất phổ biến trên thị trường của loại đất có cùng mục đích sử dụng đã chuyển nhượng, giá trúng đấu giá quyền sử dụng đất đối với những nơi có đấu giá quyền sử dụng đất hoặc thu thập từ việc sử dụng đất”,
Khoản 2 Điều 74: “Việc bồi thường được thực hiện bằng việc giao đất có cùng mục đích sử dụng với loại đất thu hồi, nếu không có đất để bồi thường thì được bồi thường bằng tiền theo giá đất cụ thể của loại đất thu hồi do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định tại thời điểm quyết định thu hồi đất”
Tuy nhiên trên thực tế, giá đất do UBND cấp tỉnh quy định thường thấp hơn so với giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất trên thị trường, có trường hợp tỉ lệ chênh lệch này khá cao. Điều này khiến cho người sử dụng đất gặp khó khăn trong việc phục hồi lại tình hình canh tác, sản xuất và sinh hoạt sau khi bị thu hồi đất. Không những vậy, giá đất bồi thường ở mỗi địa phương lại có sự khác nhau nhất định. Thực tế cho thấy, thường là những dự án có vốn đầu tư nước ngoài, thì số tiền bồi thường mà người bị thu hồi đất nhận được cao hơn so với dự án không có vốn đầu tư nước ngoài. Thậm chí trong cùng một dự án – nhất là những dự án về giao thông công cộng, qua nhiều tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, thì giá đất bồi thường ở các địa phương lại khác nhau, mỗi nơi một kiểu, áp dụng khung giá đất riêng dẫn đến thắc mắc, khiếu kiện trong dân cư ở những địa bàn giáp ranh giữa tỉnh này với tỉnh kia.
Như vậy, việc quy định giá đất bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất căn cứ vào giá đất do UBND cấp tỉnh quy định như hiện nay ảnh hưởng không nhỏ đến quyền lợi người bị thu hồi đất.
Ngoài ra, quy trình xác định giá đất cụ thể trong một số trường hợp còn chậm, chưa đáp ứng kịp thời về tiến độ thu tiền sử dụng đất, tiền thuê đất, tính bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất.
2. Các chính sách hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất.
Tại khoản 2 Điều 83 Luật đất đai 2013 quy định về các chính sách hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất như sau:
“Các khoản hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất bao gồm:
- Hỗ trợ ổn định đời sống và sản xuất;
- Hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm đối với trường hợp thu hồi đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp; thu hồi đất ở kết hợp kinh doanh dịch vụ của hộ gia đình, cá nhân mà phải di chuyển chỗ ở;
- Hỗ trợ tái định cư đối với trường hợp thu hồi đất ở của hộ gia đình, cá nhân, người Việt Nam định cư ở nước ngoài mà phải di chuyển chỗ ở;
- Hỗ trợ khác.”
Như vậy, có thể thấy pháp luật đã quy định rõ về các chính sách hỗ trợ cho người sử dụng đất có đất bị thu hồi nhưng trên thực tế việc thực hiện được rất khó khăn, đặc biệt trong chính sách hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm. Cụ thể, việc hỗ trợ cho các đối tượng bị thu hồi đất chủ yếu dưới hình thức hỗ trợ tiền, chưa có giải pháp hiệu quả để đào tạo việc làm, ổn định đời sống cho người bị thu hồi đất, việc chuyển đổi nghề, tìm kiếm việc làm do người dân tự lo, chưa thực hiện được chính sách hỗ trợ đào tạo nghề cho đối tượng bị thu hồi đất trong độ tuổi lao động và có nhu cầu đào tạo nghề, giải quyết việc làm.
4. Vấn đề tái định cư.
Tái định cư cũng là một vấn đề nóng bỏng tại các địa phương. Luật đất đai 2013 có quy định tại khoản 1 Điều 85 như sau: “ Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Ủy ban nhân dân cấp huyện có trách nhiệm tổ chức lập và thực hiện dự án tái định cư trước khi thu hồi đất”. Tuy nhiên, trên thực tế nhiều dự án ở địa phương lại thực hiện ngược lại. Các nhà đầu tư không thực hiện đúng cam kết hỗ trợ tiền thuê chỗ ở cho người dân trong thời hạn tạm cư, tạm tái định cư.
Hay có hình thành khu tái định cư nhưng trên thực tế lại không đảm bảo tuân thủ các quy định của pháp luật như việc chất lượng nhà tái định cư thấp, thiếu thốn trong cơ sở hạ tầng, yếu kém trong công tác quản lý tại khu tái định cư.
Ngoài ra, việc xây dựng các khu tái định cư ở nông thôn chưa phù hợp tập quán sinh hoạt, cũng như không đáp ứng được nhu cầu sinh hoạt và sản xuất nông nghiệp của người dân.
5. Công tác cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Theo quy định tại Điều 74 Luật đất đai năm 2013, điều kiện để được bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất chính là người sử dụng đất phải có Giấy chứng nhận hoặc đủ điều kiện để Nhà nước công nhận quyền sử dụng đất tại thời điểm bị thu hồi. Tuy nhiên trên thực tế, việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho người dân chưa thực sự phổ biến, đặc biệt là ở những khu vực nông thôn, miền núi. Điều này khiến cho công tác rà soát, xem xét điều kiện bồi thường cho người sử dụng đất cũng gặp nhiều khó khăn.