
Trong thực tiễn pháp lý tại Việt Nam, các tranh chấp liên quan đến quyết định hành chính hoặc hành vi hành chính không còn xa lạ. Người dân, doanh nghiệp thường đối mặt với những thiệt hại phát sinh từ các quyết định hoặc hành vi hành chính trái pháp luật, như việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất sai quy định, thu hồi đất không đúng trình tự, hay các hành vi hành chính gây ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp. Tuy nhiên, một vấn đề phổ biến mà nhiều người gặp phải là thời hiệu khởi kiện đã hết, dẫn đến việc Tòa án từ chối thụ lý hoặc đình chỉ giải quyết vụ án. Vậy trong trường hợp này, yêu cầu bồi thường thiệt hại có còn được giải quyết hay không? Đây là câu hỏi mà rất nhiều khách hàng đã liên hệ với Luật Công Tâm để được tư vấn.
Ví dụ, anh Nguyễn Văn A, một khách hàng tại Điện Biên, đã liên hệ với chúng tôi qua hotline 0972810901 với tình huống: “Tôi bị UBND huyện ban hành quyết định thu hồi đất sai quy định từ năm 2019, gây thiệt hại lớn cho gia đình. Đến nay, tôi mới biết mình có thể khởi kiện, nhưng được thông báo là đã hết thời hiệu khởi kiện. Vậy tôi có thể yêu cầu bồi thường thiệt hại không?”. Tình huống của anh A không phải là cá biệt. Thực trạng xã hội cho thấy, nhiều người dân do thiếu hiểu biết pháp luật hoặc không được hướng dẫn kịp thời, đã bỏ lỡ thời hiệu khởi kiện theo quy định. Điều này dẫn đến những thiệt thòi lớn khi quyền lợi bị xâm phạm.
Luật Công Tâm nhận thấy rằng, vấn đề thời hiệu khởi kiện và bồi thường thiệt hại trong các vụ án hành chính là một chủ đề phức tạp nhưng rất quan trọng. Dựa trên quy định pháp luật hiện hành, chúng tôi sẽ phân tích chi tiết để bạn đọc hiểu rõ hơn về quyền lợi của mình. Bài viết này không chỉ cung cấp thông tin pháp lý mà còn hướng dẫn cách bảo vệ quyền lợi khi gặp phải các trường hợp tương tự. Hãy cùng Luật Công Tâm tìm hiểu chi tiết qua các nội dung dưới đây.
Thời hiệu khởi kiện trong vụ án hành chính là gì?
Thời hiệu khởi kiện là một khái niệm quan trọng trong pháp luật tố tụng hành chính, được hiểu là thời hạn mà cá nhân, tổ chức có quyền nộp đơn khởi kiện đến Tòa án để yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm bởi quyết định hành chính hoặc hành vi hành chính. Nếu thời hạn này kết thúc, quyền khởi kiện sẽ mất, trừ một số trường hợp ngoại lệ được pháp luật quy định.
Theo Điều 116 Luật Tố tụng hành chính 2015, thời hiệu khởi kiện được quy định như sau:
“Điều 116. Thời hiệu khởi kiện
1. Thời hiệu khởi kiện là thời hạn mà cơ quan, tổ chức, cá nhân được quyền khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án hành chính bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm; nếu thời hạn đó kết thúc thì mất quyền khởi kiện.
2. Thời hiệu khởi kiện đối với từng trường hợp được quy định như sau:
a) 01 năm kể từ ngày nhận được hoặc biết được quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc;
b) 30 ngày kể từ ngày nhận được quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh;
c) Từ ngày nhận được thông báo kết quả giải quyết khiếu nại của cơ quan lập danh sách cử tri hoặc kết thúc thời hạn giải quyết khiếu nại mà không nhận được thông báo kết quả giải quyết khiếu nại của cơ quan lập danh sách cử tri đến trước ngày bầu cử 05 ngày.
3. Trường hợp đương sự khiếu nại theo đúng quy định của pháp luật đến cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại thì thời hiệu khởi kiện được quy định như sau:
a) 01 năm kể từ ngày nhận được hoặc biết được quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu hoặc quyết định giải quyết khiếu nại lần hai;
b) 01 năm kể từ ngày hết thời hạn giải quyết khiếu nại theo quy định của pháp luật mà cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền không giải quyết và không có văn bản trả lời cho người khiếu nại.
4. Trường hợp vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan khác làm cho người khởi kiện không khởi kiện được trong thời hạn quy định tại điểm a và điểm b khoản 2 Điều này thì thời gian có sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan khác không tính vào thời hiệu khởi kiện.
5. Các quy định của Bộ luật dân sựvề cách xác định thời hạn, thời hiệu được áp dụng trong tố tụng hành chính.”
Quy định này nhằm đảm bảo tính kịp thời trong việc giải quyết tranh chấp hành chính, tránh kéo dài thời gian, gây ảnh hưởng đến sự ổn định của các quan hệ pháp luật. Tuy nhiên, thời hiệu 1 năm được nhiều chuyên gia và người dân đánh giá là khá ngắn, đặc biệt trong các trường hợp phức tạp, nơi người dân cần thời gian để thu thập chứng cứ hoặc hiểu rõ quyền lợi của mình.
Ví dụ, trong trường hợp anh A kể trên, quyết định thu hồi đất được ban hành vào năm 2019, nhưng anh chỉ biết đến quyền khởi kiện vào năm 2025. Theo khoản 2 Điều 116, thời hiệu khởi kiện của anh đã hết từ năm 2020 (1 năm kể từ ngày anh nhận được hoặc biết được quyết định). Điều này dẫn đến việc Tòa án sẽ từ chối thụ lý hoặc đình chỉ vụ án nếu đã thụ lý, theo điểm g khoản 1 Điều 143 Luật Tố tụng hành chính 2015:
“Điều 143. Đình chỉ giải quyết vụ án
1. Tòa án quyết định đình chỉ giải quyết vụ án trong các trường hợp sau đây:
g) Thời hiệu khởi kiện đã hết;”
Như vậy, khi thời hiệu khởi kiện đã hết, vụ án hành chính sẽ bị đình chỉ, trừ khi có sự kiện bất khả kháng (như thiên tai, dịch bệnh) hoặc trở ngại khách quan (như người khởi kiện bị ốm nặng, không thể thực hiện quyền khởi kiện). Đây là một quy định nghiêm ngặt, đòi hỏi người dân cần nắm rõ thời hạn để bảo vệ quyền lợi của mình.
Yêu cầu bồi thường thiệt hại trong vụ án hành chính
Khi quyền lợi bị xâm phạm bởi quyết định hành chính hoặc hành vi hành chính trái pháp luật, người dân không chỉ có quyền khởi kiện để yêu cầu hủy quyết định hoặc chấm dứt hành vi trái pháp luật mà còn có thể yêu cầu bồi thường thiệt hại. Đây là quyền được quy định rõ ràng trong Luật Tố tụng hành chính 2015 và Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước 2017.
Theo khoản 1 Điều 7 Luật Tố tụng hành chính 2015, quy định về bồi thường thiệt hại như sau:
“Điều 7. Giải quyết vấn đề bồi thường thiệt hại trong vụ án hành chính
1. Người khởi kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án hành chính có thể đồng thời yêu cầu bồi thường thiệt hại do quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc, quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh, danh sách cử tri gây ra.
Người khởi kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu bồi thường thiệt hại có nghĩa vụ cung cấp tài liệu, chứng cứ. Trường hợp cần thiết, Tòa án có thể tiến hành xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ để bảo đảm cho việc giải quyết vụ án được chính xác.
Khi giải quyết yêu cầu bồi thường thiệt hại trong vụ án hành chính, các quy định của pháp luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước và pháp luật về tố tụng dân sự được áp dụng để giải quyết.”
Điều này có nghĩa là trong một vụ án hành chính, người khởi kiện có thể yêu cầu bồi thường thiệt hại cùng với yêu cầu hủy quyết định hành chính hoặc chấm dứt hành vi hành chính trái pháp luật. Tuy nhiên, để được bồi thường, người yêu cầu cần chứng minh:
- Có thiệt hại thực tế: Thiệt hại có thể là về tài sản (mất đất, tài sản bị hủy hoại), sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, hoặc các quyền lợi hợp pháp khác.
- Có mối quan hệ nhân quả: Thiệt hại phải được chứng minh là do quyết định hành chính hoặc hành vi hành chính trái pháp luật gây ra.
- Có lỗi của cơ quan, người thi hành công vụ: Hành vi hoặc quyết định phải được xác định là trái pháp luật, do lỗi cố ý hoặc vô ý của cơ quan nhà nước hoặc người thi hành công vụ.
Ví dụ, trong trường hợp anh A, nếu quyết định thu hồi đất của UBND huyện được xác định là trái pháp luật và gây thiệt hại tài sản (mất quyền sử dụng đất, mất thu nhập từ đất), anh A có quyền yêu cầu bồi thường. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là khi thời hiệu khởi kiện đã hết, liệu yêu cầu bồi thường thiệt hại có còn được Tòa án xem xét?
Thời hiệu khởi kiện đã hết, bồi thường thiệt hại có được giải quyết?
Đây là câu hỏi cốt lõi mà nhiều khách hàng quan tâm khi liên hệ với Luật Công Tâm. Theo hướng dẫn tại mục 4 Công văn 207/TANDTC-PC ngày 07/4/2017 của Tòa án nhân dân tối cao, vấn đề được làm rõ như sau:
“4. Trường hợp thời hiệu khởi kiện đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính đã hết dẫn đến cần đình chỉ giải quyết mà vụ án còn có yêu cầu bồi thường thiệt hại do quyết định hành chính, hành vi hành chính đó gây ra thì Tòa án giải quyết như thế nào?
Khoản 1 Điều 7 Luật Tố tụng hành chính quy định: “… Khi giải quyết yêu cầu bồi thường thiệt hại trong vụ án hành chính, các quy định của pháp luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước và pháp luật về tố tụng dân sự được áp dụng để giải quyết.”
Khoản 2 Điều 6 Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước quy định: “Thời hiệu yêu cầu bồi thường trong quá trình giải quyết vụ án hành chính được xác định theo thời hiệu khởi kiện vụ án hành chính.”
Như vậy, trường hợp đương sự khởi kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính đồng thời có yêu cầu bồi thường thiệt hại do quyết định hành chính, hành vi hành chính gây ra mà thời hiệu khởi kiện đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính đã hết thì Tòa án căn cứ điểm g khoản 1 Điều 143 Luật Tố tụng hành chính để đình chỉ giải quyết vụ án.”
Theo quy định trên, nếu thời hiệu khởi kiện vụ án hành chính đã hết, Tòa án sẽ đình chỉ giải quyết vụ án theo điểm g khoản 1 Điều 143 Luật Tố tụng hành chính 2015. Đồng thời, do khoản 2 Điều 6 Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước 2017 quy định rằng thời hiệu yêu cầu bồi thường trong vụ án hành chính được xác định theo thời hiệu khởi kiện vụ án hành chính, nên khi thời hiệu khởi kiện đã hết, yêu cầu bồi thường thiệt hại cũng không được giải quyết trong vụ án hành chính.
Cụ thể, tại khoản 2 Điều 6 Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017 quy định:
“Điều 6. Thời hiệu yêu cầu bồi thường
2. Thời hiệu yêu cầu bồi thường trong quá trình giải quyết vụ án hành chính được xác định theo thời hiệu khởi kiện vụ án hành chính.”
Điều này có nghĩa là, trong trường hợp thời hiệu khởi kiện vụ án hành chính đã hết, yêu cầu bồi thường thiệt hại không thể được giải quyết trong khuôn khổ vụ án hành chính.
Ví dụ, quay lại trường hợp của anh A, nếu thời hiệu khởi kiện vụ án hành chính đã hết (từ năm 2020), yêu cầu hủy quyết định thu hồi đất và yêu cầu bồi thường của anh A sẽ bị Tòa án đình chỉ giải quyết vụ án.
Lời khuyên từ Luật Công Tâm
Việc bảo vệ quyền lợi trong các tranh chấp hành chính đòi hỏi sự am hiểu pháp luật và sự chuẩn bị kỹ lưỡng về chứng cứ. Luật Công Tâm nhận thấy rằng, nhiều người dân gặp khó khăn do không nắm rõ thời hiệu khởi kiện hoặc thiếu tài liệu chứng minh thiệt hại. Do đó, chúng tôi khuyến khích bạn:
- Hành động kịp thời: Ngay khi nhận được quyết định hành chính hoặc phát hiện hành vi hành chính trái pháp luật, hãy tìm hiểu quyền lợi của mình và hành động trong thời hiệu quy định (1 năm cho vụ án hành chính, 3 năm cho yêu cầu bồi thường thiệt hại trong vụ án dân sự).
- Thu thập chứng cứ: Lưu giữ mọi văn bản, biên bản, hình ảnh, hoặc tài liệu liên quan đến thiệt hại để làm cơ sở khởi kiện.
- Tìm kiếm tư vấn pháp lý: Liên hệ với các luật sư uy tín để được hướng dẫn đúng quy trình và tránh bỏ lỡ thời hiệu khởi kiện.
Công ty Luật Công Tâm, với đội ngũ luật sư giàu kinh nghiệm tại địa chỉ Tầng 6, số 141 Hoàng Quốc Việt, Nghĩa Đô, Cầu Giấy, Hà Nội, luôn sẵn sàng hỗ trợ bạn trong các vấn đề pháp lý liên quan đến hành chính và bồi thường thiệt hại. Hãy gọi ngay hotline 0972810901 hoặc 0969545660, hoặc truy cập luatcongtam.com.vn để được tư vấn miễn phí và nhanh chóng. Chúng tôi cam kết đặt quyền lợi của bạn lên hàng đầu, mang đến giải pháp pháp lý hiệu quả và tận tâm.