Chứng cứ buộc tội là chứng cứ xác định tội phạm được thực hiện, xác định người phạm tội, lỗi của người phạm tội, các tình tiết định khung tăng nặng, các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự và các tình tiết khác bất lợi cho người phạm tội khi giải quyết vụ án. Chứng cứ trong vụ án hình sự là nội dung quan trọng và được quy định cụ thể trong Bộ luật Tố tụng hình sự, việc xác định chứng cứ của vụ án hình sự thông thường do cơ quan có chuyên môn và thẩm quyền thực hiện.

1. Chứng cứ trong tố tụng hình sự

Theo Điều 86 Bộ luật tốt tụng hình sự 2015, chứng cứ được định nghĩa như sau:

Điều 86: Chứng cứ

Chứng cứ là những gì có thật, được thu thập theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định, được dùng làm căn cứ để xác định có hay không có hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội và những tình tiết khác có ý nghĩa trong việc giải quyết vụ án.

So với quy định trước đây, khái niệm trong Bộ luật tố tụng hình sự 2015 đã mở rộng chủ thể sử dụng chứng cứ khi không quy định chỉ giới hạn “Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Toà án” mới có quyền này. Điều này đảm bảo quyền tham gia của bị cáo, bị hại và những người tham gia tố tụng khác vào quá trình giải quyết vụ án. Cụ thể là việc tham gia sử dụng chứng cứ, và cả việc kiểm tra, đánh giá các nguồn chứng cứ.

Dựa trên khái niệm này, chứng cứ có các đặc điếm sau: Chứng cứ là có thật, bảo đảm tính khách quan; Chứng cứ có tính hợp pháp; Chứng cứ phải liên quan đến vụ án. Như vậy, nếu thiếu một trong ba yếu tố trên thì sẽ không được xem là chứng cứ.

2. Nguồn chứng cứ trong tố tụng hình sự

Theo Điều 87 Bộ luật Tố tụng Hình sự, chứng cứ được thu thập, xác định từ các nguồn:

Vật chứng

Vật chứng theo Điều 89 là vật được dùng làm công cụ, phương tiện phạm tội, vật mang dấu vết tội phạm, vật là đối tượng của tội phạm, tiền hoặc vật khác có giá trị chứng minh tội phạm và người phạm tội hoặc có ý nghĩa trong việc giải quyết vụ án.

Lời khai, lời trình bày

Căn cứ các Điều 91, 92, 93, 94, 95, 96, 97, 98 của Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015, lời khai, lời trình bày được coi là vật chứng bao gồm: Lời khai của người làm chứng; Lời khai của bị hại; Lời khai của nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự; Lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án; Lời khai của người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố, người phạm tội tự thú, đầu thú, người bị bắt, bị tạm giữ; Lời khai của người tố giác, báo tin về tội phạm; Lời khai của người chứng kiến và Lời khai của bị can, bị cáo. 

Theo quy định của pháp luật, không được dùng làm chứng cứ những tình tiết do Lời khai của người làm chứng; Lời khai của bị hại; Lời khai của nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự; Lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án trình bày nếu họ không thể nói rõ vì sao biết được tình tiết đó.

Bên cạnh đó, lời nhận tội của bị can, bị cáo chỉ có thể được coi là chứng cứ nếu phù hợp với những chứng cứ khác của vụ án. Đồng thời, không được dùng lời nhận tội của bị can, bị cáo làm chứng cứ duy nhất để buộc tội, kết tội.

Ảnh minh họa

Dữ liệu điện tử

Theo Điều 99 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015, dữ liệu điện tử là ký hiệu, chữ viết, chữ số, hình ảnh, âm thanh hoặc dạng tương tự được tạo ra, lưu trữ, truyền đi hoặc nhận được bởi phương tiện điện tử.

Trong đó, dữ liệu điện tử được thu thập từ phương tiện điện tử, mạng máy tính, mạng viễn thông, trên đường truyền và các nguồn điện tử khác.

Kết luận giám định, định giá tài sản

Kết luận giám định là văn bản do cá nhân hoặc cơ quan, tổ chức giám định lập để kết luận chuyên môn về những vấn đề được trưng cầu, yêu cầu giám định (theo Điều 100);

Kết luận định giá tài sản là văn bản do hội đồng định giá tài sản lập để kết luận về giá của tài sản được yêu cầu. Đồng thời, hội đồng định giá tài sản kết luận giá của tài sản và phải chịu trách nhiệm về kết luận đó (Điều 101 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015).

Biên bản trong hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án

Những tình tiết được ghi trong biên bản về hoạt động kiểm tra, xác minh nguồn tin về tội phạm, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử được lập theo quy định của Bộ luật này có thể được coi là chứng cứ.

Kết quả thực hiện ủy thác tư pháp và hợp tác quốc tế khác

Tại Điều 103, Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 quy định, kết quả thực hiện ủy thác tư pháp và hợp tác quốc tế khác do cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài cung cấp có thể được coi là chứng cứ nếu phù hợp với chứng cứ khác của vụ án.

Các tài liệu, đồ vật khác

Những tình tiết liên quan đến vụ án ghi trong tài liệu, đồ vật do cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp có thể được coi là chứng cứ. Trường hợp tài liệu, đồ vật này có đặc điểm theo Điều 89 quy định về vật chứng như trên thì được coi là vật chứng.

Ngoài ra, những gì có thật nhưng không phải từ các nguồn trên, không được thu thập theo trình tự, thủ tục do Bộ luật Tố tụng Hình sự quy định thì không có giá trị pháp lý và không được dùng làm căn cứ để giải quyết vụ án hình sự.

Hotline: 0972810901 | 0387003455
Youtube: Luật Công Tâm
Website: Luật Công Tâm
Email: luatsuluatcongtam@gmail.com
Địa chỉ: Tầng 6, số 141 Hoàng Quốc Việt, Nghĩa Đô, 
Cầu Giấy, Hà N
ội.

By Tâm

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai.

0969545660