Trong nhiều trường hợp thì RẤT KHÓ có khả năng một vấn đề dân sự sẽ bị hình sự hóa như việc vi phạm hợp đồng, chậm trả lãi,… Việc không thực hiện được cam kết trả nợ đúng hạn trong hợp đồng vay thì không bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Đây là quy định có tính phổ quát được nhiều quốc gia thừa nhận, luật quốc tế cũng quy định về nội dung này tại Điều 11, Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (ICCPR) năm 1966 cụ thể như sau: “Không ai bị bỏ tù chỉ vì lý do không có khả năng hoàn thành nghĩa vụ theo hợp đồng”. Nắm bắt tinh thần của ICCPR, luật Việt Nam cũng có những quy định nhằm loại trừ trách nhiệm hình sự trong quan hệ hợp đồng.
Xét về bản chất khi hai bên tự do đàm phán, thỏa thuận giao kết hợp đồng vay làm phát sinh quyền và nghĩa vụ thì đây là quan hệ dân sự theo nghĩa rộng giữa cá nhân với cá nhân, được điều chỉnh bởi các quy định trong Bộ luật Dân sự 2015 và Luật Thương mại 2005 (về nghĩa vụ, bồi thường thiệt hại, phạt vi phạm,…). Trong khi đó, luật hình sự thuộc ngành luật công điều chỉnh các mối quan hệ giữa chủ thể thực hiện hành vi phạm tội với nhà nước, chỉ khi nào phạm một tội được quy định trong Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) thì lúc đó mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Về nguyên tắc, hợp đồng thuộc phạm vi điều chỉnh của luật dân sự – thương mại nên các nguyên tắc về tự do, thiện chí, trung thực phải được đề cao. Nhà nước không thể dùng quyền lực công can thiệp vào các giao dịch dân sự nếu các giao dịch này không vi phạm điều cấm của pháp luật.
Tuy nhiên, ở một số trường hợp vẫn có thể xem xét xử lý hình sự nếu vi phạm nghĩa vụ dân sự, cụ thể:
Trên thực tế, có rất nhiều cá nhân lợi dụng tình hình dịch bệnh, mặc dù có đầy đủ khả năng thanh toán nhưng cố tình không muốn trả. Tùy tính chất mức độ có thể bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự. Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”, đây là trường hợp chủ thể thực hiện hành vi phạm tội có được tài sản một cách hợp pháp (vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng) sau đó phát sinh ý thức chiếm đoạt và thực hiện một trong các các hành vi sau:
– Dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó hoặc đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả;
– Sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản. Nếu tài sản chiếm đoạt có giá trị từ 40 triệu đồng trở lên hoặc dưới 40 triệu đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản hoặc bị kết án về các tội xâm phạm sở hữu (tại các Điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 174 và 290 Bộ luật Hình sự) thì người thực hiện hành vi phạm tội có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự với mức hình phạt cao nhất là từ 12 đến 20 năm tù giam.