Kế thừa và phát huy những mặt tích cực từ Điều 14 Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị 1966 mà Việt Nam đã tham gia: “Không ai bị đưa ra xét xử hoặc bị trừng phạt lần thứ hai về cùng một tội phạm mà người đó đã bị kết án hoặc đã được tuyên trắng án phù hợp với pháp luật và thủ tục tố tụng hình sự của mỗi nước”. Một người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội và chứa đựng những dấu hiệu được quy định trong luật hình sự là tội phạm nhưng nếu họ chưa bị Tòa án kết án thì họ chưa bị coi là có tội. Cũng cần lưu ý rằng, thuật ngữ “kết án” được hiểu cả ở hai khía cạnh, đó là việc Tòa án ra bản án tuyên bố một người phạm tội hay vô tội đối với hành vi họ đã thực hiện. Không ai bị xem là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội đã có hiệu lực pháp luật.

Nguyên tắc này đòi hỏi các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng và những người khác phải có thái độ tôn trọng họ khi tiến hành các hoạt động tố tụng cần thiết có liên quan đến thân thể và tài sản của họ, phải tạo điều kiện để bị can, bị cáo và người bào chữa sử dụng các biện pháp do luật định để gỡ tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, giảm bớt trách nhiệm bồi thường thiệt hại và những quyền lợi khác.

Một người khi thực hiện một tội phạm tức là đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội (đáp ứng các dấu hiệu cấu thành của một tội phạm quy định trong luật hình sự). Do đó, họ phải chịu trách nhiệm hình sự, hình phạt về tội phạm mà họ đã gây ra. Bản án đã tuyên (kết án) đã có hiệu lực pháp luật là sự thể hiện quan điểm của Nhà nước đối với hành vi phạm tội và trong trường hợp có tội, bản án đưa ra một hình phạt cụ thể trong hệ thống hình phạt của Bộ luật hình sự để áp dụng đối với người phạm tội. Do vậy, người phạm tội khi đã bị xét xử về tội phạm do mình thực hiện và đã có bản án có hiệu lực pháp luật thì không phải chịu thêm bất kỳ một sự kết án nào khác về tội phạm đó. Trong trường hợp bản án có hiệu lực tuyên vô tội thì nguyên tắc trên vẫn được áp dụng như những bản án có hiệu lực khác. Bởi lẽ, dù bản án tuyên có tội hay vô tội thì người phạm tội cũng đã bị một lần xét xử do hành vi mình thực hiện, cho nên không thể chịu thêm bất kỳ lần xét xử nào khác đối với hành vi đó. Trong trường hợp đã khởi tố, điều tra, truy tố về tội phạm trên thì vụ án phải được đình chỉ. Nguyên tắc này thể hiện sự nhân đạo, công bằng trong pháp luật hình sự.

Điều 14. Không ai bị kết án hai lần vì một tội phạm

Không được khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử đối với người mà hành vi của họ đã có bản án của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, trừ trường hợp họ thực hiện hành vi nguy hiểm khác cho xã hội mà Bộ luật hình sự quy định là tội phạm.

By Tâm

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai.

0969545660