Phục hồi vụ án hình sự trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm là trường hợp Tòa án quyết định tiếp tục việc giải quyết vụ án mà trước đó đã bị tạm đình chỉ hoặc đình chỉ khi có lý do để hủy bỏ quyết định tạm đình chỉ, quyết định đình chỉ vụ án nếu chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm. Đây là quy định mới mới được bổ sung tại Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2015.  

Điều 283 BLTTHS năm 2015 quy định về phục hồi vụ án trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm như sau:

“1. Khi có lý do để hủy bỏ quyết định tạm đình chỉ vụ án hoặc có lý do để hủy bỏ quyết định đình chỉ vụ án nếu chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự thì Thẩm phán đã ra quyết định tạm đình chỉ, quyết định đình chỉ vụ án ra quyết định phục hồi vụ án.

Trường hợp Thẩm phán đã ra quyết định tạm đình chỉ, quyết định đình chỉ vụ án không thể thực hiện được thì Chánh án ra quyết định phục hồi vụ án.

2. Trường hợp tạm đình chỉ, đình chỉ đối với từng bị can, bị cáo thì ra quyết định phục hồi vụ án đối với từng bị can, bị cáo.

3. Quyết định phục hồi vụ án phải ghi rõ lý do phục hồi vụ án và các nội dung quy định tại khoản 2 Điều 132 của Bộ luật này.

4. Khi phục hồi vụ án, Tòa án có quyền áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế theo quy định của Bộ luật này.

Trường hợp có căn cứ theo quy định của Bộ luật này cần phải tạm giam thì thời hạn tạm giam để phục hồi vụ án không được quá thời hạn chuẩn bị xét xử”.

Theo quy định trên, được coi là có lý do để hủy bỏ quyết định tạm đình chỉ vụ án khi có một trong những căn cứ:

(i) Bị can, bị cáo bị tâm thần hoặc bị bệnh hiểm nghèo được tạm đình chỉ vụ án nay đã khỏi bệnh;

(ii) Đã có kết quả trưng cầu giám định, định giá tài sản, tương trợ tư pháp đối với vụ án hoặc đã bắt được bị can, bị cáo bỏ trốn theo lệnh truy nã;

(iii) Đã có kết quả xử lý văn bản pháp luật theo kiến nghị của Tòa án.

Được coi là có lý do để hủy bỏ quyết định đình chỉ vụ án khi có một trong những căn cứ:

(i) Vụ án được đình chỉ theo yêu cầu của người bị hại quy định tại khoản 2 Điều 155 BLTTHS nhưng sau đó phát hiện căn cứ cho rằng người đã yêu cầu rút yêu cầu khởi tố trái với ý muốn của họ do bị ép buộc, cưỡng bức;

(ii) Vụ án được đình chỉ khi có một trong các căn cứ sau đây nhưng xuất hiện lý do để hủy quyết định đình chỉ vụ án: Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội chưa đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự; Người mà hành vi phạm tội của họ đã có bản án hoặc quyết định đình chỉ vụ án có hiệu lực pháp luật; Đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự; Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đã chết, trừ trường hợp cần tái thẩm đối với người khác.

Đối với vụ án có nhiều bị can, bị cáo cùng được tạm đình chỉ hoặc đình chỉ nhưng chỉ có lý do hủy bỏ quyết định tạm đình chỉ hoặc đình chỉ đối với một hoặc một số bị can, bị cáo thì ra quyết định phục hồi vụ án đối với từng bị can, bị cáo.

Người có thẩm quyền ra quyết định phục hồi vụ án là Thẩm phán đã ra quyết định tạm đình chỉ, quyết định đình chỉ vụ án. Trường hợp Thẩm phán đã ra quyết định tạm đình chỉ, quyết định đình chỉ vụ án không thể thực hiện được thì Chánh án ra quyết định phục hồi vụ án. Đó là trường hợp Thẩm phán đã ra quyết định tạm đình chỉ, quyết định đình chỉ vụ án hết nhiệm kỳ thẩm phán mà không được tái nhiệm, chuyển công tác, nghỉ hưu, ốm đau hoặc lý do khác mà không còn thẩm quyền hoặc không thể ra quyết định phục hồi vụ án.

Quyết định phục hồi vụ án phải ghi rõ lý do phục hồi vụ án và các nội dung quy định tại khoản 2 Điều 132 của BLTTHS năm 2015. Nội dung phục hồi vụ án bao gồm: Số, ngày, tháng, năm, địa điểm, ban hành quyết định đình chỉ vụ án hoặc tạm đình chỉ vụ án; Căn cứ ban hành quyết định phục hồi vụ án; Lý do phục hồi vụ án; Họ, tên, chức vụ, chữ ký của người ban hành Quyết định phục hồi vụ án và đóng dấu.

Khi phục hồi vụ án, Tòa án có quyền áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế theo quy định của BLTTHS. Thẩm phán chủ tọa phiên tòa có quyền quyết định việc áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn (bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm, cấm đi khỏi nơi cư trú, tạm hoãn xuất cảnh); các biện pháp cưỡng chế (áp giải, dẫn giải, kê biên tài sản, phong tỏa tài khoản).

Bên cạnh đó, Chánh án, Phó Chánh án có quyền quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp tạm giam, trường hợp có căn cứ quy định tại Điều 119 BLTTHS năm 2015 và xét thấy cần phải tạm giam thì thời hạn tạm giam để phục hồi vụ án không được quá thời hạn chuẩn bị xét xử.

By Tâm

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai.

0969545660