Tranh chấp đất đai là loại tranh chấp dân sự phổ biến hiện nay. Khi cá nhân, tổ chức tranh chấp đòi lại đất thì cách xử lý và giải quyết như thế nào?

Tranh chấp đòi lại đất là một trong những dạng về tranh chấp đất đai, cụ thể loại này là tranh chấp về quyền sử dụng đất của người sử dụng đất giữa hai hay nhiều bên trong quan hệ đất đai. Căn cứ tại khoản 1 Điều 166 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định thì có thể đưa ra kết luận sau:

Chủ sở hữu, chủ thể có quyền khác đối với đất có quyền đòi lại đất từ người đã chiếm hữu, người đang sử dụng tài sản hay người được lợi về việc chiếm đất mà không có căn cứ pháp luật. Trường hợp tranh chấp đòi lại đất thường gặp là do lỗi của người đang bị kiện họ có thể đang lấn chiếm, ở nhờ, trông coi, đất đưa vào sản xuất, hợp tác xã, đất được nhờ bưởi người khác đứng tên giùm…

Pháp luật có quy định tại khoản 2 Điều 3 Nghị quyết 04/2017/NQ-HĐTP quy định đối với những loại tranh chấp mà chứng minh xem ai là người có quyền sử dụng đất nhưng chưa được hoà giải tại Uỷ ban nhân dân cấp xã, phường, thị trấn nơi có đất tranh chấp theo quy định thì bị coi như chưa có đủ điều kiện khởi kiện; còn đối với dạng tranh chấp khác liên quan đến quyền sử dụng đất như tranh chấp về thừa kế, giao dịch mua bán, tặng, cho, chuyển nhượng đất hay chia tài sản chung của vợ chồng là quyền sử dụng đất thì không bắt buộc phải hoà giải tại xã, phường mà vẫn đủ điều kiện khởi kiện tại Toà án.

Như vậy, thông qua phân tích ở trên có thể thấy, để giải quyết tranh chấp đất đai cụ thể là tranh chấp đòi lại đất thì có hai cách giải quyết là hoà giải tại Uỷ ban nhân dân cấp xã và khởi kiện tại Toà án.

Thủ tục hoà giải tranh chấp đòi lại đất tại Uỷ ban nhân dân

Nhà nước đưa ra quy định là khuyến khích các bên tranh chấp đất đai tự hoà giải hoặc giải quyết tranh chấp đất đai thông qua hoà giải tại cơ sở. Trong trường hợp các bên đã thực hiện hoà giải nhưng không thành hoặc không muốn hoà giải thì phải gửi đơn hoà giải đến Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi có đất tranh chấp để hoà giải. Tuy nhiên việc hoà giải tại Uỷ ban nhân dân cấp xã là không bắt buộc, chỉ có tranh chấp ai là người có quyền sử dụng đất mới phải bắt buộc hoà giải tại Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có đất.

Theo đó, tranh chấp đòi lại đất là tranh chấp bắt buộc phải tiến hành hoà giải tại uỷ ban nhân dân cấp xã, phường, thị trấn nơi có đất. Theo đó, thủ tục hoà giải tranh chấp đòi lại đất được tiến hành theo quy định tại Điều 202 Luật Đất đai năm 2013 như sau:

– Khi bên bên tiến hành hoà giải nhưng không thành thì làm đơn yêu cầu hoà giải đến Uỷ ban nhân dân cấp xã,phường, thị trấn nơi có đất. Khi nhận được đơn yêu cầu của các bên thì Uỷ ban nhân dân cấp mà đứng đầu là Chủ tịch uỷ ban sẽ phải thực hiện thẩm tra, xác minh tìm hiểu nguyên nhân phát sinh tranh chấp, thu thập giấy tờ và các tài liệu có liên quan đến hiện trạng đất, quá trình sử dụng đất cũng như cung cấp thông tin về nguồn gốc đất đang tranh chấp.

– Sau khi xác mình được những vấn đề trên thì tiến hành hoà giải thông qua việc thành lập hội đồng hoà giải. Hội đồng hoà giải tại Uỷ ban gồm Chủ tịch hoặc Phó Chủ tịch – Chủ tịch Hội đồng phối hợp với Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc xã, thị trấn, phường; tổ trưởng tổ dân phố tại khu vực đô thị hoặc trưởng thôn, ấp đối với khu vực nông thôn hay một người nào đó có uy tín trong dòng họ,m ở nơi sinh sống, nơi làm việc hoặc bất kỳ người nào có trình độ pháp lý, có kiến thức xã hội hoặc già làng, chức sắc tôn giáo, người biết rõ vụ, việ hoặc một vài đối tượng khác trong trường hợp cụ thể như Hội phụ nữ, Hội Cựu chiến binh….

– Trong phiên hoà tại tại UBND thì các bên phải có mặt đầy đủ nếu không sẽ không tiến hành hoà giải được, pháp luật cho phép các bên vắng một lần và hoãn phiên hoà giải, nếu tiếp tục vắng lần thứ hai hoặc đã hoà giải thành nhưng các bên có ý kiến thay đổi kết quả thì coi như sự việc hoà giải không thành và được Chủ tịch lập thành biên bản hoà giải không thành theo quy định và phải có chữ ký của Chủ tịch Hội đồng, các bên có mặt tại buổi hoà giải, các thành viên tham gia hoà giải và phải đóng dấu của UBND cấp xã, sau đó gửi đến cho các bên tranh chấp và lưu tại UBND cấp xã.

– Các bên có quyền ý kiến bằng văn bản trong 10 ngày kể từ ngày lập biên bản hoà giải thành. Nếu ý kiến có thay đổi thì Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã tổ chức lại cuộc họp Hôi đồng xem xét lại ý kiến bổ sung sau đó lập biên bản hoà giải thành hoặc không thành.

– Uỷ ban nhân dân cấp xã sẽ tiến hành gửi biên bản hoà giải đến Phòng tài nguyên và mội trường khi có sự thay đổi hiện trạng về ranh giới, người sử dụng với trường hợp hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư với nhau tranh chấp đất, còn các trường hợp khác thì gửi đến Sở tài nguyên và môi trường. Rồi sau đó 2 cơ quan trên sẽ cấp quyết định công nhận việc thay đổi ranh giới thửa đất và cấp mới Giấy chứng nhận quyền sở hữu đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất.

Như vậy, nếu quá trình hoà giải mà các bên thống nhất ý kiến, không có sự thay đổi về ý kiến của các bên hoặc có sự thay đổi về ranh giới, người sử dụng đất và có quyết định công nhận của cơ quan có thẩm quyền thì coi như là hoà giải thành và các bên không được giải quyết bằng bất kỳ hình thức nào nữa, ngược lại nếu hoà giải không thành và lập biên bản hoà giải không thành thì các bên sẽ tiến hành gửi đơn đến các cơ quan có thẩm quyền để tiếp tục giải quyết tranh chấp đất.

Giải quyết tranh chấp đòi lại đất khi hoà giải không thành

Giải quyết tranh chấp đòi lại đất chỉ phát sinh khi các bên tiến hành hoá giải tại UBND cấp xã nhưng không thành. Sau đó các bên gửi đơn yêu cầu các cơ quan có thẩm quyền khác về giải quyết tranh chấp đất đai cụ thể được thực hiện như sau:

– Toà án nhân dân sẽ giải quyết tranh chấp đòi lại đất nếu tranh chấp đất đai và tranh chấp về tài sản gắn liền với đất mà các bên đương sự có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc có một trong các tài liệu được quy định tại Điều 100 Luật đất đai năm 2013;

– Trường hợp các bên đương sự không có một trong các loại giấy tơ theo quy định tại Điều 100 Luật đất đai năm 2013 hoặc không có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì lựa chọn nộp đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp tại Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền hoặc các đương sự tiến hành khởi kiện tại Toà án nhân dân có quyền theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự, cụ thể như sau:

+ Các bên đương sự lựa chọn gửi yêu cầu giải quyết tranh chấp đến Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền thì được lựa chọn UBND cấp huyện hoặc UBND cấp tỉnh trong các trường hợp sau: Chủ tịch UBND cấp huyện sẽ giải quyết đối với tranh chấp giữa hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư, nếu các bên tranh chấp không đồng ý với quyết định giải quyết có quyền khiếu nại đến chủ tịch UBND cấp tỉnh hoặc khởi kiện tại Toà theo quy định về tố tụng hành chính; còn Chủ tịch UBND cấp tỉnh sẽ giải quyết đối với các tranh chấp mà một bên tranh chấp là tổ chức, cơ sở tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và nếu không đồng ý với quyết định giải quyết đó thi có quyền khiếu nại đến Bộ trưởng Bộ tài nguyên và Môi trường hoặc khởi kiện tại Toà an nhân dân theo quy định về tố tụng hành chính

Về trình tự giải quyết đòi lại đất thuộc thẩm quyền của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện, cấp tỉnh nêu trên được quy định chi tiết tại Điều 89 Nghị định 43/2014/NĐ-CP

+ Các bên lựa chọn khởi kiện tại Toà án theo quy định tại Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 trước hết phải đảm bảo về các điều kiện khởi kiện, chủ thể khởi kiện và lựa chọn Toà án nhân dân có thẩm quyền theo cấp, theo lãnh thổ quy định tại Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015.

Hotline: 0972810901 | 0387003455
Youtube: Luật Công Tâm
Website: Luật Công Tâm
Email: luatsuluatcongtam@gmail.com
Địa chỉ: Tầng 6, số 141 Hoàng Quốc Việt, Nghĩa Đô, 
Cầu Giấy, Hà N
ội.

By Tâm

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai.

0969545660